Tra OLong HaiYih. Được tạo bởi Blogger.
RSS
Trà ô long HaiYih xuất xứ từ quê hương Cầu Đất – Xuân Trường " Từ năm 1927, người Pháp đã đến vùng đất này lập Sở Trà, mộ phu từ miền Trung để khai khẩn đất trồng trà và xây dựng nhà máy chế biến trà đầu tiên của Việt Nam."

QUÊ HƯƠNG CẦU ĐẤT » KÝ ỨC MIỀN TRÀ CẦU ĐẤT


 Thị xã Bảo Lộc trong những ngày này đang tưng bừng với Lễ hội Văn hóa trà Lâm Đồng 2008 (4 - 7.12) - lễ hội văn hóa trà lần thứ hai của cả nước. Cũng trong những ngày này, tôi về Cầu Đất (thuộc Đà Lạt, Lâm Đồng), cái nôi của cây chè trên đất Nam Tây Nguyên, như tìm về nguồn cội của một thuở thăng trầm đời cây - đời người. Và thật may mắn, tôi đã gặp được bà - người trồng trà xưa nhất còn sống trên xứ trà cội nguồn này. Bà tên là Phan Thị Đừng, công nhân thuộc thế hệ thứ hai của Sở trà Cầu Đất - cơ sở sản xuất trà đầu tiên của Nam Việt Nam.

        Cầu Đất là địa danh thuộc thôn Trường Thọ, xã Xuân Trường, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; cách trung tâm Đà Lạt chưa đến ba mươi cây số. Cầu Đất nằm ở độ cao 1.600m so với mực nước biển, cao hơn 100m so với độ cao trung bình của Đà Lạt (1.500m). Chính cái sự "hơn 100m" này mà xứ Cầu Đất "1.600m" đã chứng kiến biết bao điều kỳ diệu xảy ra xung quanh cây chè. 

      
 CHỨNG NHÂN MỘT THỜI
Cô công nhân Phan Thị Đừng xưa (ảnh trắng đen, hậu cảnh) và cụ bà Phan Thị Đừng nay (ảnh: Võ Đình)

       Buổi sớm, bên gốc chè già cỗi, những giọt sương long lanh còn đọng lại nơi những đọt non tươi xanh mơm mởn. Cụ bà Phan Thị Đừng chậm rãi dừng bước chân của người già bên khu mộ linh trong một khu đồi ngút ngát màu xanh của cây chè giống mới. Bước chân của người già tuy chậm chạp nhưng khá dứt khoát khi dừng lại trước những ngôi mộ. Giờ, cụ Đừng tuổi đã 80 nhưng chưa hề nhầm lẫn trong mỗi bước chân khi dừng lại trước những nấm mồ cố nhân nằm trong khu mộ linh: "Hồi trước, những người làm phu cho Sở trà Cầu Đất khi mất đi đều được chôn cất ở đây. Họ, những người đã nằm lại nơi này, là những chứng nhân của cây chè thời lập làng trồng chè". Và, đến lúc này, sau hơn tám mươi năm có mặt của cây chè trên đất Nam Tây Nguyên, cụ bà vừa nói với tôi điều ấy chính là chứng nhân duy nhất còn sót lại.

       
        Trong phòng truyền thống của Công ty cổ phần chè Cầu Đất (tên gọi hiện tại của Sở trà Cầu Đất xưa), cụ bà Phan Thị Đừng dừng lại khá lâu bên một bức ảnh đen trắng khổ lớn chụp một cô gái cúi khom người sàng chè. Cô gái trẻ trung và khá xinh đẹp. "Tôi đấy! Lúc ấy, tôi chưa đến hai mươi tuổi!" - cụ Đừng lên tiếng. Rồi, bà kể: "Tôi quê ở tỉnh Quảng Ngãi, theo cha mẹ vào Cầu Đất năm lên 6 tuổi. 10 năm sau, tôi chính thức trở thành công nhân của Sở trà Cầu Đất do người Pháp cai quản. Ngày ấy, lớp người công nhân chúng tôi cực khổ trăm bề...". Hồi mới lập nên sở trà, người Pháp đã tuyển mộ nhiều lượt dân miền Trung như Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Nam... vào đây lập làng và làm phu cho người Pháp. Mà, nhóm cư dân miền Trung đầu tiên này hầu hết là những lực điền. Lớp người miền Trung đầu tiên ấy đi thành đoàn, gồm những lực điền độc thân hoặc những gia đình trẻ có khả năng lao động tốt. Cha và mẹ của bà Đừng là một gia đình như thế. 

       
       Theo lời cụ bà Phan Thị Đừng thì lớp công nhân của những ngày mới lập nên Sở trà Cầu Đất ấy cứ gọi là quanh năm bới đất lật cỏ nhưng vẫn không đủ miếng ăn. Còn với trà - thứ mà chính họ làm ra, thì phải nói là thứ thức uống quý tộc. "Công nhân chúng tôi làm gì có được chén trà ngon mà uống! Xứ này, lạnh cắt da cắt thịt. Trà làm ra, mấy ông chủ Pháp mang sang tận bên trời Tây để bán. Còn công nhân chúng tôi phải mót thứ lá già về phơi khô rồi hãm với nước sôi". Tôi cảm thấy thật khó hình dung ra cảnh làm việc của những phu trà thuở ấy. Vì theo lời cụ bà Phan Thị Đừng thì ngay từ sáng sớm, mấy ông "cai kẻng" người Việt đã gióng kẻng thúc hối phu trà đến sở điểm danh. Nếu ai vắng nhiều thì tên của họ trở thành điểm đen trong cuốn sổ của mấy ông chủ tiệm thực phẩm người Pháp. Để đến kỳ, những mặt hàng thiết yếu của gia đình phu trà phải "được" bớt đi, trừ vào những ngày nghỉ. 

       
        Về sau, đến lúc thất thời, mấy ông chủ người Pháp buộc phải sang lại Sở trà Cầu Đất cho chủ mới là người Tàu. "Thời người Hoa cũng không khá hơn là mấy. Người làm ra trà vẫn cứ uống mót lá chè già, còn búp và lá non thì vẫn cứ được người Hoa sấy tẩm mang ra nước ngoài" - bà Đừng nói. Nhưng người miền Trung chịu thương chịu khó vẫn bám trụ để giữ cho gốc chè Cầu Đất cắm rễ xuống đất. Tuy nhiên, thời gian trôi, cây chè dần dần không còn là cây quý tộc và thức uống này cũng không còn là một thứ xa xỉ. Người dân Cầu Đất tuy quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất nhưng rồi họ cũng đã bắt đầu "tự thưởng" cho mình những bát nước chè xanh ủ trong nồi luôn được giữ ấm, hoặc pha chế ra chén uống sau bữa ăn. Nói cách khác, cây chè vào những năm 40, 50 đã được trồng phổ biến trong dân chứ không chỉ có mặt trong Sở trà Cầu Đất dưới thời Tây.


       TỪ TRÀ CẦU ĐẤT ĐẾN LỄ HỘI VĂN HÓA TRÀ

       
        Đến lúc này thì quả thực là khó có thể nhớ nổi và nhớ hết có bao nhiêu thứ trà và kiểu uống trà. Ngay như chỉ ở Công ty cổ phần trà Cầu Đất này mà thôi, tên các sản phẩm trà và giống cây trà được ghi chép trong sổ tay một cách khá cẩn thận nhưng cũng làm tôi hoa mắt cả lên khi nhìn vào. Tuy nhiên, riêng con số mà ông Giám đốc Nguyễn Văn Khanh (ông Khanh vừa bàn giao quyền chỉ đạo cho người khác - ông Hoàng Văn Cương, Q.GĐ - kể từ đầu tháng 12 này) cung cấp thì tôi nhớ rõ: "Ngày trước, Sở trà Cầu Đất có khoảng 1.000 công nhân người Việt làm việc trong các khâu từ trồng trà cho đến chế biến và tiêu thụ. Ngay từ những năm 30, 40, danh tiếng trà Cầu Đất đã được lan tận đến trời Tây nhờ cái hương vị đặc trưng của đất này - vùng đất có độ cao 1.600m so với mực nước biển, cao hơn Đà Lạt 100m. Cái hương đất và cả tình người ấy đã tụ lại trong cây chè nên người tiêu dùng, đặc biệt là người nước ngoài, cảm thấy hết sức thú vị khi thưởng thức chén trà Cầu Đất với cái "hậu" vừa chát chát và ngòn ngọt của nó. Cái hương vị đặc trưng tự nhiên với kiểu vừa chát tự nhiên nhưng ngòn ngọt và thơm cũng rất tự nhiên ấy của trà Cầu Đất đến giờ vẫn thế, mặc dầu nhà máy chè Cầu Đất đã qua 3 đời giám đốc người Pháp, 2 đời giám đốc người Hoa và 9 đời giám đốc người Việt với thời gian lên đến hơn 80 năm nay".
Công nhân chế biến trà tại Nhà máy chè Cầu Đất (ảnh: K.D)

       Như lời ông Khanh nói, sương mù quanh năm bao phủ (sương mù Đà Lạt có theo mùa) là sự ban tặng của thiên nhiên cho xứ Cầu Đất; và cũng là sự lựa chọn đúng của người Pháp khi lần đầu tiên đưa cây chè cắm rễ xuống đây vào năm 1927 và lập nên Sở trà Cầu Đất (Plantation de L'arbre Broye à Cau Dat) vào năm 1930. Đưa tôi đi thăm khu vườn trà cổ, ông Khanh giới thiệu: "Vườn chè này có tuổi lên đến trên 80 năm. Đây là những gốc chè đầu tiên được người Pháp đặt xuống vùng đất Nam Tây Nguyên. Vườn chè cổ 50ha này hiện vẫn còn được khai thác tốt. Và đây là một trong số ít vuờn chè cổ nhất Việt Nam. Đặc biệt hơn, nó là vườn chè cổ duy nhất của Việt Nam được đưa vào kinh doanh du lịch". Lúc còn trong khuôn viên nhà máy, ông Khanh cũng đã giới thiệu với tôi hệ thống máy móc chế biến trà cổ nhất Việt Nam hiện vẫn đang hoạt động: Máy vò và máy sấy trà do hãng Marshall's tea Machinery Ltd. sản xuất năm 1945. Tôi nhớ lại thông tin này: Vào dịp Lễ hội Văn hóa trà 2006, lễ hội trà đầu tiên của Việt Nam, Ban Tổ chức Lễ hội đã chọn Nhà máy chè Cầu Đất (tên gọi lúc bấy giờ) làm "địa chỉ vàng" để du khách tham quan. 

       
       Quả thật là hết sức có lý khi Việt Nam chọn Lâm Đồng làm nơi tổ chức lễ hội văn hóa trà đầu tiên vào năm 2006 và bây giờ là Lễ hội Văn hóa trà 2008 - lễ hội văn hóa trà lần hai. Bởi lẽ, không chỉ Lâm Đồng là vùng nguyên liệu chè nhất nhì của cả nước (26.000ha trong tổng số 125.000ha) với sản lượng chè cao nhất nước (chiếm 27%) mà vùng đất Nam Tây Nguyên này còn chính là cái nôi của cây chè Việt Nam ở phía nam, có nhà máy chế biến trà đầu tiên của Việt Nam (nhà máy chè Cầu Đất), là xứ sở tạo nên hương trà đặc trưng - trà Cầu Đất và cả trà Blao nổi tiếng... Rồi thì, với Lễ hội Văn hóa trà 2008, Ban Tổ chức còn đặt ra một kỳ vọng là xây dựng thương hiệu trà cho tỉnh trà Lâm Đồng (trà là một trong ba cây trồng chủ lực của tỉnh: trà, cà phê và dâu tằm) một cách đúng nghĩa để góp phần quan trọng vào việc vinh danh thương hiệu chè Viêt - "CheViet". Như vậy, nhìn dưới góc độ văn hóa thì khi nói đến thương hiệu chè Việt, không thể không nhắc đến sự đóng góp không hề nhỏ của cây chè Lâm Đồng và người lao động ngành chè Lâm Đồng với "thương hiệu con" là "Trà Blao" - một trong hai thương hiệu mà Lâm Đồng đang dốc sức xây dựng, đó là thương hiệu "Đà Lạt" và thương hiệu "Blao" (tên gọi khác của vùng đất trà Bảo Lộc). Và, trong thương hiệu trà của Lâm Đồng, chắc chắc những người như cụ bà Phan Thị Đừng đã có những đóng góp rất đáng ghi nhận cần được lưu tâm.

       
       Tôi nghĩ và viết ra chuyện phải ghi nhận công lao của những người như cụ bà Phan Thị Đừng còn vì một lẽ khác. Đó là, trước khi chia tay, tôi vẫn còn kịp nghe cụ bà Phan Thị Đừng nói rằng: "Bố mẹ tôi là công nhân của Sở trà Cầu Đất ngay từ những ngày đầu lập sở. Tôi thuộc thế hệ tiếp theo - năm 18 tuổi, chính thức trở thành công nhân. Rồi sau đó và đến tận bây giờ, hầu hết các con tôi, cháu tôi, cả dâu lẫn rể đều là công nhân của Nhà máy chè Cầu Đất". Rồi nữa, cần và rất cần làm một điều gì đó nghĩa ân đối với những cố nhân của cụ bà Phan Thị Đừng đã nằm xuống trong khu mộ linh cách nhà máy chè Cầu Đất không xa ấy. Bởi họ, cả ngàn công nhân của Sở trà Cầu Đất, trong hai cuộc kháng chiến đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh giản phóng dân tộc, ít nhất là bằng những cuộc biểu tình, bãi công... chống giới chủ. Tôi chia tay cụ bà Phan Thị Đừng, chia tay ông giám đốc Nguyễn Văn Khanh khi mặt trời mới lên non sào phía đông. Và, tôi đã kịp lưu vào trong đầu những giọt sương long lanh trên búp trà non mà bây giờ nó đã hóa thành những đôi mắt hạt chè- những đôi mắt đang muốn nói nhiều điều!
 http://traolonghaiyih.com/