Tra OLong HaiYih. Được tạo bởi Blogger.
RSS
Trà ô long HaiYih xuất xứ từ quê hương Cầu Đất – Xuân Trường " Từ năm 1927, người Pháp đã đến vùng đất này lập Sở Trà, mộ phu từ miền Trung để khai khẩn đất trồng trà và xây dựng nhà máy chế biến trà đầu tiên của Việt Nam."

NHỮNG CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG » TẤT CẢ ĐỀU BẮT ĐẦU TỪ CON SỐ 0


Nếu bạn thất vọng vì bản thân mình chưa đạt được thành công thì cũng đừng bi quan. Bởi tất cả những người thành công cũng giống như bạn: bắt đầu từ con số 0. Tất cả đều có điểm khởi đầu, không ai sinh ra đã là người thành công.

Nếu bạn nghi ngờ, bạn hãy xem bản liệt kê dưới đây để biết được những nhân vật nổi tiếng hiện nay đã từng làm những công việc gì trước khi họ bước lên được thảm đỏ Hollywood:
Ashton Kutcher                                Nhân viên quét dọn tại nhà máy General Mills
Ralph Lauren                      Nhân viên bán áo len dài tay
Maya Angelou                   Nhân viên bán vé xe điện
Bill Murray                          Người bán hạt dẻ
Stephen King                     Quản gia
Coolio                                   Nhân viên chữa lửa
Jack Nicholson                   Người soạn thư
 
Mariah Carey                     Nhân viên giữ đồ
Dennis Rodman                                Tư vấn trại hè
Garth Brooks                     Nhân viên bán giày
Iman                                      Binh lính trong quân đội Somali
Brad Pitt                               Nhân viên giao tủ lạnh
Jim Carrey                           Người gác cửa
Madonna                            Vũ công
Jewel                                    Nữ phục vụ
Oprah Winfrey                  Nhà báo
Rob Schneider                   Người rửa chén
Jerry Seinfed                     Nhân viên bán bóng đèn qua điện thoại
Còn bạn thì sao? Vị trí hiện tại của bạn không quan trọng bằng nơi mà bạn muốn đến.
Phỏng theo “Tỏa sáng – Larry A. Thompson”
http://traolonghaiyih.com/

NHỮNG CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG » BIẾT ƠN ÔNG ĐÃ ĐUỔI TÔI



Con người thật lạ!... Chúng ta có khả năng than phiền về sự thăng trầm không dứt của cuộc sống, song cũng có khả năng an nhiên tự tại trong những điều kiện tạm bợ hay khó khổ nhất, cũng như có niềm tin rằng vũ trụ sẽ gửi tặng chúng ta một chiếc vé hạng nhất miễn phí để đi trong cuộc đời…
Tôi muốn kể về một trường hợp khá thú vị: Bette Graham.
Hồi còn trẻ, với tính cách năng động, Bette có một ước mơ: trở thành họa sĩ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều tốt đẹp. Tuy nhiên, bạn có lẽ sẽ nhận thấy rằng cuộc đời hay có thói quen gây ra những xáo động, thử thách con người trong những lúc quyết định bằng cách bày ra cho chúng ta những sự lựa chọn khác nhau, cái nào cũng làm cho chúng ta nhỏ dãi được. Và chuyện đã xảy đến với Bette là cô ấy phải lòng một người đàn ông và rồi trở thành mẹ. Đó là thời đệ nhị thế chiến. Chồng cô bị gọi nhập ngũ và khi chiến tranh kết thúc là lúc tình yêu giữa họ chấm dứt.
Giờ đây, mang thân góa bụa, không được học hành đến nơi đến chốn và thời gian cũng chẳng có để cô theo đuổi ước mơ của mình: nghề vẽ. Cảnh túng quẫn buộc Bette phải tìm một chân thư ký hành chính ở một công ty. Lúc này là vào cuối những năm 40 và máy đánh chữ không có nút “Delete” (cám ơn ông Trời cho cái máy tính của ta có nút này). Hết lỗi sai này đến lỗi sai khác cứ đầy lên trong các tài liệu mà cô đánh máy, Betty thấy mình mất thì giờ và nhuệ khí. Bữa nọ, đột nhiên cô suy nghĩ: đời họa sĩ sướng thật, nếu họ không hài lòng với bức vẽ của mình, họ chỉ cần lấy cọ quẹt lên mấy chỗ không ưng và thật nhanh chóng, chỗ không ưng ý sẽ được chữa lại.
Cô về nhà và bắt đầu mày mò trộn mấy màu sơn lại với nhau, làm sao để có được cái màu giống đúc như màu giấy. Và cô đã thành công. Ngày hôm sau, Bette cứ việc đánh máy thoải mái, chỗ nào sai thì dùng thứ màu cô đã pha chế để tô lên rồi đánh máy lại chỗ sai ấy. Thật nhanh chóng, mấy cô thư ký cùng làm khác cũng thấy cái phương pháp của Bette tỏ ra hiệu quả. Họ bắt đầu hỏi cô về thứ chất liệu gì cô đang sử dụng. Bette buộc phải đưa ra mấy cái lọ có dán nhãn “Tẩy lỗi”.
Tin hay đồn lẹ: cái thứ Betty chế ra thật tiện dụng. Thế là bà con thi nhau đặt mua những lọ màu đó. Vào năm 1956, Bette thành lập công ty Mistake Out ở Dallas, Texas. Hoạt động của công ty thật đơn giản: cô ở trong nhà bếp làm nhiệm vụ trộn màu trong máy hóa lỏng, con trai cô cùng những đứa bạn nó thì đóng lọ. Cô ta đầu tắt mặt tối, cứ cặm cụi làm việc không kể đêm ngày, ngày thường cũng như ngày nghỉ, song không biết lý do nào đó mà công việc kinh doanh dường như chẳng phát triển là mấy. Với khối lượng công việc ngập đầu như thế, Betty mất khả năng tập trung vào công việc của mình. Và rồi, điều kỳ diệu đã xảy đến…, cô phạm phải một lỗi trong công việc, lỗi đó xem như không thể nào khắc phục được… và cô bị công ty ĐUỔI VIỆC!
Khoảnh khắc kỳ diệu ấy đã xảy ra! Trước đây Bette lo lắng bám lấy cái công việc “an toàn” của mình, sẵn sàng chấp nhận mức thu nhập bình thường, thậm chí ngay cả khi có một cơ hội lớn lao đang mở ra trước mắt cô. Việc cô bị sa thải đã có kết quả tức thì: cô có thêm thì giờ! Thì giờ để bán, bán, bán và khuyếch trương cái công ty đã lớn mạnh của cô. Năm 1967, doanh thu công ty của cô đạt tới mức một triệu đô la, và khi cô bán công ty Liquid Paper của mình vào năm 1980, cô thu được 47,5 triệu Mỹ kim.
Nguồn: MogerManet Chu du vào chốn bán hàng – Roger Konopasek

http://traolonghaiyih.com/

QUÊ HƯƠNG CẦU ĐẤT » KÝ ỨC MIỀN TRÀ CẦU ĐẤT


 Thị xã Bảo Lộc trong những ngày này đang tưng bừng với Lễ hội Văn hóa trà Lâm Đồng 2008 (4 - 7.12) - lễ hội văn hóa trà lần thứ hai của cả nước. Cũng trong những ngày này, tôi về Cầu Đất (thuộc Đà Lạt, Lâm Đồng), cái nôi của cây chè trên đất Nam Tây Nguyên, như tìm về nguồn cội của một thuở thăng trầm đời cây - đời người. Và thật may mắn, tôi đã gặp được bà - người trồng trà xưa nhất còn sống trên xứ trà cội nguồn này. Bà tên là Phan Thị Đừng, công nhân thuộc thế hệ thứ hai của Sở trà Cầu Đất - cơ sở sản xuất trà đầu tiên của Nam Việt Nam.

        Cầu Đất là địa danh thuộc thôn Trường Thọ, xã Xuân Trường, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; cách trung tâm Đà Lạt chưa đến ba mươi cây số. Cầu Đất nằm ở độ cao 1.600m so với mực nước biển, cao hơn 100m so với độ cao trung bình của Đà Lạt (1.500m). Chính cái sự "hơn 100m" này mà xứ Cầu Đất "1.600m" đã chứng kiến biết bao điều kỳ diệu xảy ra xung quanh cây chè. 

      
 CHỨNG NHÂN MỘT THỜI
Cô công nhân Phan Thị Đừng xưa (ảnh trắng đen, hậu cảnh) và cụ bà Phan Thị Đừng nay (ảnh: Võ Đình)

       Buổi sớm, bên gốc chè già cỗi, những giọt sương long lanh còn đọng lại nơi những đọt non tươi xanh mơm mởn. Cụ bà Phan Thị Đừng chậm rãi dừng bước chân của người già bên khu mộ linh trong một khu đồi ngút ngát màu xanh của cây chè giống mới. Bước chân của người già tuy chậm chạp nhưng khá dứt khoát khi dừng lại trước những ngôi mộ. Giờ, cụ Đừng tuổi đã 80 nhưng chưa hề nhầm lẫn trong mỗi bước chân khi dừng lại trước những nấm mồ cố nhân nằm trong khu mộ linh: "Hồi trước, những người làm phu cho Sở trà Cầu Đất khi mất đi đều được chôn cất ở đây. Họ, những người đã nằm lại nơi này, là những chứng nhân của cây chè thời lập làng trồng chè". Và, đến lúc này, sau hơn tám mươi năm có mặt của cây chè trên đất Nam Tây Nguyên, cụ bà vừa nói với tôi điều ấy chính là chứng nhân duy nhất còn sót lại.

       
        Trong phòng truyền thống của Công ty cổ phần chè Cầu Đất (tên gọi hiện tại của Sở trà Cầu Đất xưa), cụ bà Phan Thị Đừng dừng lại khá lâu bên một bức ảnh đen trắng khổ lớn chụp một cô gái cúi khom người sàng chè. Cô gái trẻ trung và khá xinh đẹp. "Tôi đấy! Lúc ấy, tôi chưa đến hai mươi tuổi!" - cụ Đừng lên tiếng. Rồi, bà kể: "Tôi quê ở tỉnh Quảng Ngãi, theo cha mẹ vào Cầu Đất năm lên 6 tuổi. 10 năm sau, tôi chính thức trở thành công nhân của Sở trà Cầu Đất do người Pháp cai quản. Ngày ấy, lớp người công nhân chúng tôi cực khổ trăm bề...". Hồi mới lập nên sở trà, người Pháp đã tuyển mộ nhiều lượt dân miền Trung như Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Nam... vào đây lập làng và làm phu cho người Pháp. Mà, nhóm cư dân miền Trung đầu tiên này hầu hết là những lực điền. Lớp người miền Trung đầu tiên ấy đi thành đoàn, gồm những lực điền độc thân hoặc những gia đình trẻ có khả năng lao động tốt. Cha và mẹ của bà Đừng là một gia đình như thế. 

       
       Theo lời cụ bà Phan Thị Đừng thì lớp công nhân của những ngày mới lập nên Sở trà Cầu Đất ấy cứ gọi là quanh năm bới đất lật cỏ nhưng vẫn không đủ miếng ăn. Còn với trà - thứ mà chính họ làm ra, thì phải nói là thứ thức uống quý tộc. "Công nhân chúng tôi làm gì có được chén trà ngon mà uống! Xứ này, lạnh cắt da cắt thịt. Trà làm ra, mấy ông chủ Pháp mang sang tận bên trời Tây để bán. Còn công nhân chúng tôi phải mót thứ lá già về phơi khô rồi hãm với nước sôi". Tôi cảm thấy thật khó hình dung ra cảnh làm việc của những phu trà thuở ấy. Vì theo lời cụ bà Phan Thị Đừng thì ngay từ sáng sớm, mấy ông "cai kẻng" người Việt đã gióng kẻng thúc hối phu trà đến sở điểm danh. Nếu ai vắng nhiều thì tên của họ trở thành điểm đen trong cuốn sổ của mấy ông chủ tiệm thực phẩm người Pháp. Để đến kỳ, những mặt hàng thiết yếu của gia đình phu trà phải "được" bớt đi, trừ vào những ngày nghỉ. 

       
        Về sau, đến lúc thất thời, mấy ông chủ người Pháp buộc phải sang lại Sở trà Cầu Đất cho chủ mới là người Tàu. "Thời người Hoa cũng không khá hơn là mấy. Người làm ra trà vẫn cứ uống mót lá chè già, còn búp và lá non thì vẫn cứ được người Hoa sấy tẩm mang ra nước ngoài" - bà Đừng nói. Nhưng người miền Trung chịu thương chịu khó vẫn bám trụ để giữ cho gốc chè Cầu Đất cắm rễ xuống đất. Tuy nhiên, thời gian trôi, cây chè dần dần không còn là cây quý tộc và thức uống này cũng không còn là một thứ xa xỉ. Người dân Cầu Đất tuy quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất nhưng rồi họ cũng đã bắt đầu "tự thưởng" cho mình những bát nước chè xanh ủ trong nồi luôn được giữ ấm, hoặc pha chế ra chén uống sau bữa ăn. Nói cách khác, cây chè vào những năm 40, 50 đã được trồng phổ biến trong dân chứ không chỉ có mặt trong Sở trà Cầu Đất dưới thời Tây.


       TỪ TRÀ CẦU ĐẤT ĐẾN LỄ HỘI VĂN HÓA TRÀ

       
        Đến lúc này thì quả thực là khó có thể nhớ nổi và nhớ hết có bao nhiêu thứ trà và kiểu uống trà. Ngay như chỉ ở Công ty cổ phần trà Cầu Đất này mà thôi, tên các sản phẩm trà và giống cây trà được ghi chép trong sổ tay một cách khá cẩn thận nhưng cũng làm tôi hoa mắt cả lên khi nhìn vào. Tuy nhiên, riêng con số mà ông Giám đốc Nguyễn Văn Khanh (ông Khanh vừa bàn giao quyền chỉ đạo cho người khác - ông Hoàng Văn Cương, Q.GĐ - kể từ đầu tháng 12 này) cung cấp thì tôi nhớ rõ: "Ngày trước, Sở trà Cầu Đất có khoảng 1.000 công nhân người Việt làm việc trong các khâu từ trồng trà cho đến chế biến và tiêu thụ. Ngay từ những năm 30, 40, danh tiếng trà Cầu Đất đã được lan tận đến trời Tây nhờ cái hương vị đặc trưng của đất này - vùng đất có độ cao 1.600m so với mực nước biển, cao hơn Đà Lạt 100m. Cái hương đất và cả tình người ấy đã tụ lại trong cây chè nên người tiêu dùng, đặc biệt là người nước ngoài, cảm thấy hết sức thú vị khi thưởng thức chén trà Cầu Đất với cái "hậu" vừa chát chát và ngòn ngọt của nó. Cái hương vị đặc trưng tự nhiên với kiểu vừa chát tự nhiên nhưng ngòn ngọt và thơm cũng rất tự nhiên ấy của trà Cầu Đất đến giờ vẫn thế, mặc dầu nhà máy chè Cầu Đất đã qua 3 đời giám đốc người Pháp, 2 đời giám đốc người Hoa và 9 đời giám đốc người Việt với thời gian lên đến hơn 80 năm nay".
Công nhân chế biến trà tại Nhà máy chè Cầu Đất (ảnh: K.D)

       Như lời ông Khanh nói, sương mù quanh năm bao phủ (sương mù Đà Lạt có theo mùa) là sự ban tặng của thiên nhiên cho xứ Cầu Đất; và cũng là sự lựa chọn đúng của người Pháp khi lần đầu tiên đưa cây chè cắm rễ xuống đây vào năm 1927 và lập nên Sở trà Cầu Đất (Plantation de L'arbre Broye à Cau Dat) vào năm 1930. Đưa tôi đi thăm khu vườn trà cổ, ông Khanh giới thiệu: "Vườn chè này có tuổi lên đến trên 80 năm. Đây là những gốc chè đầu tiên được người Pháp đặt xuống vùng đất Nam Tây Nguyên. Vườn chè cổ 50ha này hiện vẫn còn được khai thác tốt. Và đây là một trong số ít vuờn chè cổ nhất Việt Nam. Đặc biệt hơn, nó là vườn chè cổ duy nhất của Việt Nam được đưa vào kinh doanh du lịch". Lúc còn trong khuôn viên nhà máy, ông Khanh cũng đã giới thiệu với tôi hệ thống máy móc chế biến trà cổ nhất Việt Nam hiện vẫn đang hoạt động: Máy vò và máy sấy trà do hãng Marshall's tea Machinery Ltd. sản xuất năm 1945. Tôi nhớ lại thông tin này: Vào dịp Lễ hội Văn hóa trà 2006, lễ hội trà đầu tiên của Việt Nam, Ban Tổ chức Lễ hội đã chọn Nhà máy chè Cầu Đất (tên gọi lúc bấy giờ) làm "địa chỉ vàng" để du khách tham quan. 

       
       Quả thật là hết sức có lý khi Việt Nam chọn Lâm Đồng làm nơi tổ chức lễ hội văn hóa trà đầu tiên vào năm 2006 và bây giờ là Lễ hội Văn hóa trà 2008 - lễ hội văn hóa trà lần hai. Bởi lẽ, không chỉ Lâm Đồng là vùng nguyên liệu chè nhất nhì của cả nước (26.000ha trong tổng số 125.000ha) với sản lượng chè cao nhất nước (chiếm 27%) mà vùng đất Nam Tây Nguyên này còn chính là cái nôi của cây chè Việt Nam ở phía nam, có nhà máy chế biến trà đầu tiên của Việt Nam (nhà máy chè Cầu Đất), là xứ sở tạo nên hương trà đặc trưng - trà Cầu Đất và cả trà Blao nổi tiếng... Rồi thì, với Lễ hội Văn hóa trà 2008, Ban Tổ chức còn đặt ra một kỳ vọng là xây dựng thương hiệu trà cho tỉnh trà Lâm Đồng (trà là một trong ba cây trồng chủ lực của tỉnh: trà, cà phê và dâu tằm) một cách đúng nghĩa để góp phần quan trọng vào việc vinh danh thương hiệu chè Viêt - "CheViet". Như vậy, nhìn dưới góc độ văn hóa thì khi nói đến thương hiệu chè Việt, không thể không nhắc đến sự đóng góp không hề nhỏ của cây chè Lâm Đồng và người lao động ngành chè Lâm Đồng với "thương hiệu con" là "Trà Blao" - một trong hai thương hiệu mà Lâm Đồng đang dốc sức xây dựng, đó là thương hiệu "Đà Lạt" và thương hiệu "Blao" (tên gọi khác của vùng đất trà Bảo Lộc). Và, trong thương hiệu trà của Lâm Đồng, chắc chắc những người như cụ bà Phan Thị Đừng đã có những đóng góp rất đáng ghi nhận cần được lưu tâm.

       
       Tôi nghĩ và viết ra chuyện phải ghi nhận công lao của những người như cụ bà Phan Thị Đừng còn vì một lẽ khác. Đó là, trước khi chia tay, tôi vẫn còn kịp nghe cụ bà Phan Thị Đừng nói rằng: "Bố mẹ tôi là công nhân của Sở trà Cầu Đất ngay từ những ngày đầu lập sở. Tôi thuộc thế hệ tiếp theo - năm 18 tuổi, chính thức trở thành công nhân. Rồi sau đó và đến tận bây giờ, hầu hết các con tôi, cháu tôi, cả dâu lẫn rể đều là công nhân của Nhà máy chè Cầu Đất". Rồi nữa, cần và rất cần làm một điều gì đó nghĩa ân đối với những cố nhân của cụ bà Phan Thị Đừng đã nằm xuống trong khu mộ linh cách nhà máy chè Cầu Đất không xa ấy. Bởi họ, cả ngàn công nhân của Sở trà Cầu Đất, trong hai cuộc kháng chiến đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh giản phóng dân tộc, ít nhất là bằng những cuộc biểu tình, bãi công... chống giới chủ. Tôi chia tay cụ bà Phan Thị Đừng, chia tay ông giám đốc Nguyễn Văn Khanh khi mặt trời mới lên non sào phía đông. Và, tôi đã kịp lưu vào trong đầu những giọt sương long lanh trên búp trà non mà bây giờ nó đã hóa thành những đôi mắt hạt chè- những đôi mắt đang muốn nói nhiều điều!
 http://traolonghaiyih.com/

NHỮNG CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG » THÓI QUEN VÀ NHỮNG SỢI XÍCH


Một vấn đề mà người ta thường đặt ra cho tôi tại hầu hết những cuộc hội thảo cũng như những buổi nói chuyện trước công chúng là: “Tôi muốn làm một cái gì đó khác, tôi có những ước mơ, song có gì chắc chắn không về việc theo đuổi những ước mơ của mình?


Tôi đã phải vật lộn một thời gian dài để tìm ra một cách trả lời cho vấn đề này, mãi đến lúc tôi tình cờ nghe được câu chuyện thú vị sau đây.

Voi là một trong những sinh vật khỏe nhất sống trên cạn. Chúng có thể quật chết một người trong nháy mắt, và chẳng có bất cứ một lý do hợp lý nào giải thích chuyện một chú voi phải hoàn toàn chịu sự sai khiến con người, chịu dùng thân kéo gỗ hay thồ những thứ nặng cồng kềnh trên lưng. Điều gì khiến những con khủng thú này phải ngon ngoãn phục tùng con người chúng ta?

Ta hãy chú ý  vào bài học đầu tiên về việc “Huấn luyện Voi 101”.

Khi một chú voi còn nhỏ, hãy dùng một sợi xích kim loại thật nặng buộc chân sau của chú vào một cái cọc đóng trên đất. Lẽ tất nhiên, chú ta rất muốn lon ton đi đâu đó, rong chơi để biết trời biết đất, để học cách đương đầu với những thách đố mà cuộc đời dành cho chú. Khổ nỗi, mỗi lúc chồm người để bước đi, chú cứ phải khổ sở bị những cọng xích nặng nề giật chân lại. Dù vậy, chú voi nhỏ vẫn cứ cố, và cố cho đến khi một điều lạ lùng xảy ra: chú học được một bài học rằng cứ cố để bước tới là chuyện vô ích; chú voi nhỏ đã “khôn hơn” rồi.

Và bây giờ là lúc bạn có thể cho chú voi nhỏ của mình “ra trường”; bạn có thể tháo cọng xích sắt ra khỏi chân chú vì chú đã trở nên “khôn hơn”, vì chú đã biết rằng tốt nhất là đừng có cố chạy đi đâu…, chú sẽ chịu ở yên làm một tù nhân của nền “giáo dục” mà chú đã thụ hưởng…, nhờ vậy mà bạn có thể làm cho một con thú khỏe nhất trên cạn trở thành một đầy tớ ngoan ngoãn chẳng bao giờ dám liều lĩnh “giật cọng dây xích”…

Thế thì, cha mẹ, bạn bè, những người thân yêu của bạn sẽ nói gì về những ước mơ của bạn? Có lẽ họ bảo bạn rằng: “Xem nào, quả là một mơ ước thú vị, song có vẻ mạo hiểm quá, mà mạo hiểm thì nguy lắm, thất bại là chuyện không chừng, thôi cứ an toàn cho chắc kẻo phải hối tiếc…”. Đúng! Đúng ở chỗ mỗi một ước mơ đều có cái giá của nó và lắm lúc, cái giá phải trả chính là sự thất bại… Song tôi tin là mọi người trong chúng ta đều giống những chú voi, chúng ta có một sức mạnh hơn là chúng ta nghĩ.

http://traolonghaiyih.com/


TRÀ DƯ TỬU HẬU » GIÁ TRỊ CỦA TRÀ Ô LONG



Theo kinh nghiệm dân gian và các tài liệu nghiên cứu ở một số quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, ngoài hàm lượng cafein vừa đủ để giúp tinh thần sảng khoái và tỉnh táo, trà còn là phương thuốc kỳ diệu cho sức khỏe của con người. Các vitamin K, vitamin C, vitamin B12, nguyên tố mangan có tác dụng chống đông máu, chống sâu răng, loãng xương. Các hoạt chất như Flavonoid ngăn cản sự xơ hóa và đọng cholesteron ở các mạch máu, giảm thiểu đáng kể tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim. Gallotamin có tác dụng đối với não bộ ngăn chặn thoái hóa với các tế bào thần kinh và kích thích phục hồi tế bào này. Các chất tamin Polyphenol trong trà có các tác dụng lớn trong việc giảm cân, chống ung thư, tim mạch, viêm khớp, tiêu chảy, chống độc.

Nhờ vào quy trình bán lên men, trà ô long có lượng Polyphenol rất cao và phong phú, do đó rất hữu ích không chỉ cho sức khỏe mà còn cho sắc đẹp. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đây chính là sản phẩm chủ yếu giúp da chống lão hóa và có sức đề kháng đối với tác hại của môi trường tạo ra những nếp nhăn, tàn nhang nằm trên da. Trà ô long còn giúp cho con người giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, xơ cứng động mạch và bệnh béo phì, phòng chống suy thận, suy lá lách. Do trà ô long có nguồn Polyphenol tăng cường hoạt động của enzym SOD giúp ngăn ngừa sự hình thành và loại bỏ các yếu tố được tạo ra khi cơ thể phải chặn đứng những tác hại của tia phóng xạ, cực tím, khói thuốc, thực phẩm chứa chất phụ gia độc hại… Giúp cơ thể chuyển hóa năng lượng của mỡ, loại bỏ lượng mỡ dư thừa.

http://traolonghaiyih.com/

NHỮNG CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG » TƠ ĐỒNG SE KẾT ĐÔI BỜ ĐẠI DƯƠNG



Chuyện hồi năm 1854. Có chàng tên Cyrus Field, một doanh nhân Mỹ lối ba mươi gì đó, trong lúc hầu chuyện ông anh, đã chợt khám phá ra một bước vĩ đại phải đi trong cuộc đời. Số là, ông anh lôi ông em vào để kể cho nghe dự án của mấy tay khùng điên nào đó muốn kéo một hệ thống cáp ngầm dưới biển nối Nova Scotia đến Newfoundland đã “vỡ mặt” ra sao…

Nghe chuyện, Cyrus chợt rúng người, à không, khoái chí! Cái ý tưởng dùng cáp nối đôi bờ xa tít kia xem chừng thú vị lắm đây. Song để tiến hành nối hai phần đất thuộc Canada này lại với nhau thì… Chợt Cyrus đảo mắt một đường từ Mỹ sang Anh! Sao không? Ý tưởng này, dự án này rồi đây sẽ VĨ ĐẠI lắm lắm. Việc gì mà không ra tay nối các lục địa này lại với nhau bằng một hệ thống cáp ngầm dưới biển kia chứ? Chao ôi, một sứ mạng phi thường, xứng đáng một tầm vươn cho thỏa chí lớn…

Ba năm sau, 1857, dự án nối đôi bờ Anh – Mỹ đã đâu vào đó, chực mà hóa hiện thực. Hai con tàu khổng lồ chở hàng trăm nghìn tấn cáp quấn bằng đồng đỏ, được niêm bọc kỹ lưỡng, đang tiến dần ra khơi. Trên từng hải lý, những sợi cáp kia được lần lượt rải xuống đáy đại dương. Công việc được tiến hành rất chậm rãi. Gặp kỳ bão tố, công việc càng khó khăn gấp bội. Ngọn ba đào dữ dội ngoài khơi xa cứ hè nhau mà quyết tâm đánh chìm những con tàu khổng lồ kia, cả cái dự án quy mô mà nó chở theo nữa. Các sợi cáp bị đứt liên tục và bị cuốn vào đại dương thăm thẳm. Bất chấp! Ngày mồng 7, tháng 8 năm 1858, hệ thống cáp nối đôi bờ lục địa Anh – Mỹ đã hoàn tất. Bà con ai nấy đều mê ly! Và Cyrus trở thành vị anh hùng vĩ đại nhất của ngày đó.

Cái ngày mà Cyrus nở mặt nở mày hơn hết là khi bức thông điệp đầu tiên chui vào ống cáp mà du hành xuyên Đại Tây Dương, từ Anh sang Mỹ. Nữ hoàng Victoria của Anh quốc là khách hàng đầu tiên sử dụng hệ thống cáp này. Bà đã gửi bức thông điệp 103 chữ cho tổng thống Hoa Kỳ. Quả đáng mặt Cyrus! Dù vậy, bức thông điệp ngắn cũn đó cũng phải uể oải lắm mới chịu giải mã cho vẹn chữ, trò câu sau 16 giờ đồng hồ chờ đợi. Mới lòi ra cái chưa được của hệ thống cáp ngầm này: các tín hiệu nhận phát cứ ì ạch, không chịu lẹ cho; càng lúc tín hiệu càng chậm, đến mỗi người nói một câu mà đến tuần sau người nghe mới nhận được. Để khắc phục tình hình, một chàng kỹ sư thông minh đã quyết định “vặn hết volume”, tăng bộ truyền sóng từ 600 lên 2000 vol. Cú tăng lên trời ấy đã bắn một hồi pháo hoa báo tử cho hệ thống cáp. Cáp cháy! Mà biết cháy chỗ nào trong cái mênh mông của Đại Tây Dương?

Cáp “chết”, xem chừng Cyrus ngồi trên mây chẳng được mấy ngày…

Dù đau tim vì cú thất bại “động trời” đó,Syrus vẫn coi trời bằng vung. Anh tiến hành ngay một dự án khắc phục. Anh không sợ thì mặc anh, còn mấy ông đầu tư xem chừng đã khiếp đảm lắm rồi. Gõ cửa tìm tài trợ, Cyrus chỉ liên tục nhận được những cú lắc đầu, thở dài. Ai mà dám tin rằng lần này sẽ khá hơn lần trước, nên thôi cứ chốt cửa mà ngủ cho yên. Lần đầu liều lĩnh một phen mà thất bại, nay các nhà đầu tư khiếp hãi như chó sợ súng rồi. Vậy mà, không nản lòng, Cyrus tiếp tục lặn lội đi gõ cửa, rồi thuyết giáo, giảng giải một cách hùng hồn về những ích lợi và cơ hội của việc nói chuyện bằng “dây thép” giữa hai bờ đại dương.

Tám năm tất tả gõ cửa, là tám năm Cyrus dồn hết mọi sinh lực để nhắm tới mục đích của mình… Một ngày tháng 7, năm 1866, con tàu khổng lồ mang tên “Great Eastern” đã cập bờ Newfoundland. Nó vừa hoàn thành xong việc lắp đặt một hệ thống cáp mới xuyên Đại Tây Dương. Mọi sự đã hoàn tất. Niềm mơ đã hóa thành hiện thực. Bỗng chốc mà thế giới mãi mãi xích lại gần nhau hơn. Những tín hiệu thông tin đã từng mất hàng tuần để lột qua nước mà leo lên bờ, thì giờ đây chỉ cần ít phút là xong muôn dặm hành trình.

Tầm nhìn sâu rộng của Cyrus Field đã đưa ông trở thành cha đẻ của hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu!

Nguồn: “RogerManet chu du vào nẻo thành công – Roger Konopasek”



ĐÀ LẠT MỘNG MƠ » SAY LÒNG TRÊN ĐỈNH DRAN



Năm 1978, lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt từ hướng Nha Trang. Chiếc Peugeot cũ kỹ dùng để chở khách chạy mệt mỏi từ thung lũng Ninh Sơn thuộc tỉnh Ninh Thuận ì ạch leo đèo Ngoạn Mục. 
Đến thị trấn Đơn Dương xe vượt đèo Dran lên Đà Lạt. Khi ấy hai ngọn đèo Ngoạn Mục và Dran đã cuốn hút tôi. 10 năm sau Đà Lạt trở thành quê hương thứ 2 của tôi và tôi nhận ra đó là những miền cảm hứng bất tận mà thiên nhiên hào phóng tặng cho Cao nguyên Langbian. 
Và mùa xuân này, Ngoạn Mục và Dran, một lần nữa làm tâm hồn tôi ngất ngây khi được đặt chân lên những thảm cỏ xanh mát lạnh ven đèo, ngắm nhìn những ngọn núi hùng vĩ chìm dần trong chiềc xanh thẫm… 
Dran là thị trấn huyện lỵ Đơn Dương trước kia. Từ Đơn Dưong có hai hướng lên được thành phố hoa Đà Lạt: hướng đi qua ngã ba Phi Nôm, qua đèo Prenn; hướng qua đèo Dran, qua Cầu Đất - một địa danh rất nổi tiếng, còn cao hơn cả Đà Lạt, nơi nhà thám hiểm - bác sỹ A. Yersin - người khám phá ra Đà Lạt đã từng trồng thử nghiệm cây canh - ky - na để chế biến thuốc trị bệnh sốt rét. 
Từ thị trấn Tân Sơn của huyện Ninh Sơn, bạn đã hình dung ra sự “ngoạn mục” của đèo Ngoạn Mục, khi nhìn thấy hai đường ống dẫn nước sáng loáng của Nhà máy thủy điện Đa Nhim như từ trên trời đổ xuống. Đường lên đèo, thỉnh thoảng xe bạn chui dưới hai đường ống dẫn nước thủy điện, lao vào những khu rừng già như có từ ngàn năm. Những khúc cua “chết người” và những độ dốc dựng đứng cho bạn biết thế nào là đèo “Ngoạn Mục”. 
Nhưng thú vị nhất là sự thay đổi thời tiết, càng lên cao không khí càng dịu mát. Những ngọn gió càng phóng túng và lãng mạn, lồng ngực bạn thoải mái hít thở không khí trong lành, dịu mát của rừng, của núi, của mây. Gần hết đèo Ngọan Mục, một vài cây thông xuất hiện, như báo hiệu cho bạn biết cách đó không xa là Đà Lạt thông reo. 
Hết đèo Ngoạn Mục là đến thị trấn Đơn Dương, một thị trấn bé nhỏ và hiền dịu đến nhu mì. Những quán cà phê yên tĩnh, cô độc; những vườn cà chua “trái hồng như trái ngực”; những vườn hồng trơ cành vào mùa đông, trĩu quả vào hạ; những vườn rau thơm ngát, xanh rì; những thiếu nữ má hồng như những quả cà chua mới ửng chín, khép nép trong những chiếc áo lạnh hờ hững... 
Có nhiều thời gian sống ở thị trấn nhỏ bé này, tôi vẫn chưa hiểu hết về Đơn Dương. Nhưng có thể hình dung nó như là một cô gái dậy thì vào buổi sáng; một nàng tiên nữ thuần khiết và kiêu hãnh khi chiều xuống. Sự thuần khiết và kiêu hãnh đó chinh phục bạn đến cuồng si. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có thời kỳ dạy học ở B’lao cũng rất mê Đơn Dưong, Ka Đô- một thị trấn cũng gần với Đơn Dương. Một số bài tình ca của ông đã ra đời ở đây, bên cạnh cây ghi-ta bập bùng làm núi rừng thêm hoang vu. 
Thời tiết ở Đơn Dương cũng hết sức lạ lùng, buổi chiều tối và sáng sớm mùa đông thì giá rét, rét chịu không nổi, giống như cái rét Hà Nội mùa đông, nhưng đến trưa lại nồng ấm đến vô cùng, đó là thời tiết đặc trưng của miền thung lũng ở độ cao gần 1.000 mét. 
Một đêm ở Đơn Dương bên ly rượu, ngắm sao trời trong vắt; buổi sáng tinh mơ bên ly cà phê đen, bạn đủ trầm tĩnh để hiểu về cái thị trấn đặc biệt này, vì sao nó chinh phục được bạn. 


Đèo Dran nối liền Đơn Dưong với Trạm Hành, Cầu Đất, Xuân Trường,Xuân Thọ,Trại Mát, để đến Đà Lạt. Thực chất đèo Dran chỉ dài hơn 10 km, từ thị trấn Đơn Dương đến Cầu Đất - điểm được coi là cao hơn cả Đà Lạt. Từ Cầu Đất, đèo Dran bắt đầu đổ đèo xuôi về Đà Lạt. Đây là vùng đất cũng hết sức đặc biệt, mà A. Yersin gọi là “Langbian nhỏ” trong lần thứ 3 chinh phục Langbian năm 1893. 
Thời Pháp thuộc, vượt qua đèo Dran là con đường chính để đến Đà Lạt từ hướng Ninh Thuận, sau này người ta khai thông con đường qua Thạnh Mỹ - ngã ba Phi Nôm để lên đèo Prenn đến Đà Lạt, làm cho con đường đèo Dran trở nên hoang phế. Nhưng chính sự hoang phế này tạo nên một sức hút khác, sức hút của sự hoang sơ của núi đồi “Langbian nhỏ”. 
Đèo Dran ngắn nhưng cực kỳ hiểm trở với những khúc cua không tưởng. Những rừng thông bạt ngàn, gìa cỗi như có tự bao giờ chìm lẩn khuất trong mây. Du khách có thể “sờ” được mây, được sương, bởi mây và sương luôn bất chợt hiện ra lúc ở giữa lưng chừng đèo, lúc ở đỉnh đèo, như muốn ôm bạn vào lòng. Cứ mỗi km vượt đèo Dran, bạn như đang đi thẳng vào xứ sở ôn đới, bởi nhiệt độ thay đổi rất nhanh chóng, chẳng bao lâu bạn chìm trong khí hậu lạnh mát của Đà Lạt. 
Đặc biệt ở Cầu Đất, nếu tiết trời đang xuân, bạn có thể hưởng cái lạnh khỏang 4-5 độ C vào ban đêm hoặc sáng sớm. Đó là cái lạnh trong ngần, hoang dã, tinh khiết trong thoang thoảng hương chè bạt ngàn, xanh rì từ những nông trường chè bất tận. Một ly rượu canh -ky - na làm buổi tối Cầu Đất ấm lại; một ly cà phê đen buổi sáng, làm tan sương đặc quánh bên quán nhỏ ven đồi, bạn mới hiểu rằng vì sao Cầu Đất từng thu hút người Pháp đến vậy. 

Chính con đường này A. Yersin đã đi trong lần thứ 3 thám hiểm Langbian. Ở đó ông gặp bộ tộc người Lat bên dòng suối xanh biếc. Ông gặp một cảnh quan huyền diệu của “Langbian nhỏ” và chợt nhớ đến câu ngạn ngữ Latin: “Dat Aliis Laetitian Aliis Temperriem” (cho người này niềm vui, cho người khác sự mát dịu). Như một sự tình cờ, 5 chữ đầu tiên của câu ngạn ngữ có 5 từ kia ghép lại thành DALAT! 

Đến Cầu Đất, bạn nên biết về cây chè ở đây. Nó mới làm nên thương hiệu trà Lâm Đồng. Những cây chè cổ thụ, có tuổi trăm năm vẫn còn. Những nông trang chè xanh mướt, hình ảnh những người công nhân lặng lẽ hái che trong sương xanh tịch đến vô ưu. 


Dọc tuyến du lịch này, bạn có thể tắm mình trong thiên nhiên nếu biết cách tổ chức và thưởng thức nó, bằng những cuộc picnic nho nhỏ vài ba ngày với bạn bè hoặc người thân trong gia đình. Dọc đèo Ngoạn Mục vô cùng bình yên, bạn có thể hạ trại. Dọc đèo Dran cũng vậy, hoàn toàn yên tĩnh và tinh anh, cái tinh anh của đất trời buổi sáng, buổi chiều và khi màn đêm buông xuống, để bạn không phải bị chi phối bởi bất kỳ điều gì ngoài lắng nghe tiếng nói của thiên nhiên. 
Mùa xuân, bạn có thể ngắm hoa đào Cầu Đất, Trạm Hành. Những cây đào cổ có tuổi gần năm, hoa chi chít, màu hồng quí phái, thân đào như có hoa văn của thời gian. Hoa cà phê trắng tinh anh, ngọt ngào khoe sắc bên trong những khu vườn nhà yên tĩnh. Những đóa dã quỳ khoe sắc vàng rực rỡ bên đường làm bạn nao lòng. 

Và còn nữa: những ngôi nhà gỗ trong sương. Hầu hết cư dân ở vùng đất này đều sống trong những ngôi nhà làm bằng gỗ thông nghe như nhựa thông tỏa mùi ấm áp. Tôi thích ngắm những làn khói xanh trong màu lam chiều Cầu Đất, Trạm Hành… 

Những làn khói ấy làm cho người lữ khách cô đơn như càng cô độc hơn, nó làm bạn thấy cuộc hành trình ấy thi vị biết chừng nào. Ở đó còn có những người con gái cao nguyên hiền lành nhưng phảng phất vẻ bí ẩn của những đóa dã quỳ cuồng dại, đa tình… 

Chiều sâu của Dran là bất tận như đỉnh Langbian huyền diệu, như những ngọn gió phóng túng thổi ào ạt, bất tận trên cao nguyên huyền bí, ẩn chứa những điều hư huyền nhưng rất thực. Chiều sâu ấy thúc giục người lữ khách lên đường… 
http://traolonghaiyih.com/