Hà Lan đầu thế kỷ 17 là một đất nước thuộc hàng phồn thịnh.
Những kiều dân giàu có sinh sống ở nước ngoài luôn rộng tay gửi về quê hương
mình những khoản hậu hĩnh; và người Hà Lan, lúc đó, được xếp hạng là những người
giàu nhất Châu Âu.
Cũng chính vào khoảng thời gian ấy, một cơn sốt lạ thường đã
bất thình lình ập lên khắp đất nước này. Cơn sốt ấy chẳng mấy chốc đã nổi tiếng
toàn thiên hạ với tên “cơn nghiện Tulip”. Chắc là được lấy đâu đó từ tận vùng
Hi Mã Lạp Sơn, cái thứ hoa kiều diễm xứng với mỹ danh “uất kim hương” đó đã bắt
đầu lan tràn sang bên cõi Tây bằng con đường mậu dịch. Có mặt trước hết ở Thổ
Nhĩ Kỳ, thứ hoa ấy dần dà thâm nhập vào tận Trung Âu, và được coi là sản vật có
giá trị cao, tôn luôn nghề làm vườn lên một bậc.
Khi ấy, uất kim hương được bán ra với giá trên trời, và
nhanh chóng trở thành thứ hàng giúp cho ngành mậu dịch ở Châu Âu phát triển
chóng vánh nhằm đáp ứng cho cái thị trường đang khát cháy loại hoa đặc biệt này
của người Hà Lan. Trong khi những chủng uất kim hương bình thường (có màu sắc ổn
định) đã có sẵn trên thị trường với giá cả phải chăng, thì những chủng khác thường
thuộc vào hàng hiếm, được niêm giá ngút ngất, và trở thành biểu tượng đáng kiêu
hãnh cho địa vị của những chủ nhân sở hữu chúng.
Tâm điểm của cái vòng xoắn giá lên trời này là chủng uất kim
hương mang gen “biến sắc”. “Biến sắc” tức những bông hoa bị biến đổi đột ngột về
màu sắc, do một loại virus gây nên. Những mầm hoa còn nhỏ mang di truyền cái đặc
tính “biến sắc” này sẽ được tung ra thị trường với giá trên trời.
Mà bởi vì, bất cứ một mầm hoa uất kim hương nào cũng tiềm
tàng trong chúng một khả năng “biến sắc” (nếu nhiễm phải virus), nên tất cả mọi
mầm hoa đều được những người nuôi trồng để mắt đến với niềm nôn nao mãnh liệt,
những mong nó dính phải virus mà biến sắc để họ tha hồ mà hốt bạc. Lối những
năm 1960, uất kim hương, từ một giống cây trồng như bao cây trồng khác, lại chễm
chệ mà trở thành thứ hàng mậu dịch “hốt bạc” nhất thời bấy giờ. “Cơn nghiện
Tulip” đã bắt đầu những bước tung hoành của nó. Thiên hạ vứt hết nghề này, nghiệp
nọ sang một bên, rồi đổ xô đi xới dỡ từng công đất để trồng cho được loại hoa
này, những mong làm giàu nhanh chóng. Chẳng bao lâu sau đó, các sở chứng khoán
tại các thành phố chủ chốt của Hà Lan đã biến thành cơ quan đặc biệt, chuyên
xúc tiến mậu dịch cho ngành kinh doanh mới mẻ này.
Tình thế đã vược ra ngoài tầm kiểm soát, giống như con ngựa
bất kham, khi mà thị trường càng lúc càng lên “cơn nghiện” đến độ người ta quyết
định mua hẳn những vụ thu hoạch uất kim hương trong tương lai, lúc nó còn mới
nhú mầm lè tè, bởi họ hy vọng sở hữu được một xác suất cao cái thực trạng “biến
sắc” khả dĩ nơi loại hoa này.
Cơn nghiện ấy càng lúc càng làm bao người điêu đứng. Này
nhé, biết bao là nhà cửa, chuồng trại, súc vật, trang sức, bạc vàng đã thi nhau
đổi chủ từng ngày. Giá cả chưa lúc nào chịu dừng ở tầng mây thứ chín. Dân trồng
hoa ở Hà Lan chẳng mấy bận tâm điều gì, bởi họ tin rằng thế giới đang chết mê
chết mệt với loại hoa này để rồi sẵn sàng bằng lòng mà dốc túi tiền trả với cái
giá điên cuồng của họ. Cái sự lạ đời ấy vẫn tiếp diễn từng ngày cho đến lúc có
một vài người bắt đầu ngộ ra và kịp nhìn thấy loại hoa này đúng với bản chất của
nó – thứ hoa đẹp và vô tội ấy đã bị thương mại hóa một cách cuồng điên, tàn nhẫn,
để rồi cái đẹp xem chừng đã bị vùi dập đến tơi bời hoa lá.
Leo nhanh, mà tụt cũng nhanh! Chỉ trong một thời gian ngắn
ngủi, xu hướng kia bắt đầu thoái trào. Uất kim hương tràn ngập trên thị trường,
mỏi mòn đợi “người thương”, mà kẻ mua thì lại biến mất tăm như sương thu tan vội
vàng trong nắng sớm. Ngày mồng 3, tháng Hai, năm 1637, cuộc đấu giá uất kim
hương đã diễn ra chóng vánh, và kết quả: một bông hoa chỉ bán được với giá
1.000 đồng, trong khi người trồng ra nó phải bỏ ra cho mỗi bông hoa ấy là 1.250
đồng. Phép màu chìm nghỉm không hẹn ngày nổi xác! Lòng cuồng
nhiệt xưa ấy đã dồn hết năng lượng sang chuyện… đào đất chôn bông!
Trong chừng ấy năm, hàng nghìn người đã dồn hết của cải, sức
lực cho một vài búp uất kim hương khi thị trường còn sôi sùng sục. Và giờ đây:
la liệt xác hoa, la liệt luôn cái cảnh bần cùng, nợ nần tuyệt vọng! Cơn điêu
linh đã giáng thẳng xuống trên toàn đất nước Hà Lan. Chính phủ phải gánh dùm
món nợ khổng lồ mà dân mình chôn thân vào đó. Và Hà Lan, một trong những xứ sở
giàu nhất Châu Âu thời đó, đã chệch choạng như gã say men, đưa một chân bước
vào bờ vực phá sản.
Xứ sở này đã phải mất một thời gian khá lâu mới gượng dậy khỏi
cái sấp ngửa dở khóc dở cười ấy, thoát khỏi căn bệnh đáng cái tên “ngu hàng loạt”
muôn xưa ấy!
http://traolonghaiyih.com/