Tra OLong HaiYih. Được tạo bởi Blogger.
RSS
Trà ô long HaiYih xuất xứ từ quê hương Cầu Đất – Xuân Trường " Từ năm 1927, người Pháp đã đến vùng đất này lập Sở Trà, mộ phu từ miền Trung để khai khẩn đất trồng trà và xây dựng nhà máy chế biến trà đầu tiên của Việt Nam."

TRUYỆN KỂ VỀ ĐÀ LẠT



TRUYỆN KỂ VỀ ĐÀ LẠT

Đà Lạt nằm cheo leo trên cao nguyên lâm viên, nơi đây xưa kia là vùng đất của các bộ lạc, trong đó có bộ lạc đạ và bộ lạc lạk. Hai bộ lạc không biết đã tới đây lập nghiệp tự thuở nào. Họ chỉ biết rằng ngày đó khi tới đây, mỗi bộ lạc trồng một cái cây, Bộ lạc Đạ trồng cây cau, còn bộ lạc Lạch trồng cây trầu, hai bộ lạc cách nhau một ngọn núi đá vôi. Bây giờ cây cau đã lớn, thân cây phải mười người ôm mới xuể, mỗi năm cau trổ hoa, c

ó trái, không ai dám trèo lên hái, chỉ nghe mấy cụ già trong bản kể lại, để trèo từ dưới đất lên ngọn cây, phải bới theo một tháng ngày cơm, trèo không nghỉ thì một tháng sẽ trèo tới ngọn, bởi thế nên lâu lắm rồi không có ai trèo lên hái cau nữa, cứ tới mùa trái chín, tự nó rụng xuống đất, khi trái rụng tới mặt đất thì đã ra mầm rồi, chỉ cầm đem cắm xuống đất là nó mọc thành cây mới. Hàng năm, cứ tới mùa cau chín, bộ lạc Đạ lại tổ chức trò chơi “hứng cau”. Trong vòng nửa con trăng, ai hứng được nhiều cau nhất sẽ là người thắng cuộc, phần thưởng cho người thắng cuộc là hai con trâu núi, một con voi và một con cọp.

Nói về cây trầu của bộ lạc Lạch, dây trầu của bộ lạc Lạch trồng dưới cây thông to nhất của ngọn núi, nhưng tới bây giờ, cây thông không còn nữa, lâu lâu chỉ nghe già làng say rượu rồi kể lại thôi, tụi con cháu có đứa tới gốc trầu tìm vết tích của cây thông, nhưng không thấy dấu hiệu gì hết, về đồn lên là già làng say rượu nói dóc, làm già làng chửi quá trời, từ đó hết ai dám hó hé về cây thông gốc trầu. Nhưng sự thật là có một cây thông như vậy, cây thông đó đã bị cây trầu bóp chết tự thuở nào, bây giờ gốc trầu đã thành một rừng trầu, ai lỡ đi lạc vô đó, hết vài tháng mới ra được. Còn nhớ Mọi Yến và Mọi Ly chơi trốn tìm, Mọi Ly úp mặt vô cột nhà rông trong bản đếm từ một tới mười, còn Mọi Yến thì chạy tuốt ra gốc trầu để trốn, và Mọi Ly tìm hông ra, đành chịu thua. Nhưng chờ hoài vẫn không thấy Mọi Yến ra, Mọi Ly khóc quá trời, cả bản đổ xô đi kiếm Mọi Yến, còn thuê người của bản Đạ qua kiếm phụ, ròng rã hai con trăng rồi vẫn bặt tin của Mọi Yến. Một buổi chiều tà, có một bà già ăn mặc rách rưới chống gậy đi xiêu vẹo và bản Lạch, bà già đi xăm xăm tới cột nhà Rông, chỗ mà Mọi Ly úp mặt đếm số, bà lão đập đập tay vào cây cột, miệng kêu: lon lon lon. Cả bản ngạc nhiên, trâu dừng gặm cỏ, bò ngước mắt nhìn, gà nhóc mỏ lên ngó, chó không sủa, ruồi ngừng vo ve. Mọi Yến đã về, thoát khỏi trầu mê cung. Cả bản giết trâu mở hội ăn mừng ba ngày ba đêm. Nguyên là Mọi Yến đi lạc trong mê cung trầu, tìm không thấy đường ra, đi loanh quanh tìm đường, sức cùng, lực kiêt, chỉ biết hái lá trầu mà nhai, cho nên mới mau già như vậy, và sau hơn hai con trăng lặn lội tìm đường, Mọi Yến đã thoát ra được mê cung trầu và trở về chiến thắng trong trò chơi trốn tìm năm xưa.

Năm ấy, bản Đạ Tổ chức cuộc thi hứng cau, lần này cuộc thi có tầm vóc liên bản, mời trai bản Lạch tham gia nữa. Từ sớm tinh mơ, khi con gà trống mắt nhắm mắt mở chuẩn bị ngoác mỏ gáy ò ó o thì trai của hai bản đã tập trung đầy đủ dưới gốc cau, mỗi người đội trên đầu một cái sọ dừa để làm mũ bảo hiểm, để phòng cau rớt trúng đầu, mà sọ dừa ở vùng này trồng không được, phải nhập từ dưới xuôi. Do đó, chỉ những người tham gia cuộc thi mới được già làng cho mượn sọ dừa để đội, còn những người không phận sự thì không được béng mảng tới gốc cau. Hôm nay dân làng cả hai bản tham gia lễ hội, không ai lên nương, cái rẫy không ai làm, con hươu, con nai không ai bắn, con cá dưới cái suối không ai câu, cái bụng sẽ bị đói nhưng cái cái miệng sẽ cười và cái mặt sẽ vui. Mặt trời đã đậu trên đỉnh ngọn núi đá vôi, cuộc thi tiếng cồng chiêng vang lên khắp một vùng, trai gái cả hai bản nhảy múa, mặt trời lên cao hơn ngọn núi một gang tay, cuộc thi bắt đầu. Cuộc thi sẽ kéo dài trong vòng hai con trăng, ngày hôm nay dân làng sẽ nghỉ ngơi ăn chơi nhảy múa, sang ngày hôm sau thì dân làng sẽ lên nương lên rẫy lại, còn đám trai đang hứng cau sẽ vẫn chờ cau rụng. Tới hôm cuối cùng của cuộc thi, dân làng cả hai bản lại mở hội trao giải thưởng cho người thắng cuộc. Bên bản Đạ có A Chào hứng được 92 quả cau, và bên bản Lạch có K’Tắc hứng được 92,5 quả cau. K’Tắc hứng được nửa quả cau nguyên nhân là như vầy: Quả cau thứ 93 đang rơi xuống thì có một con ó bay ngang qua, đớp mất quả cau, K’Tắc chụp luôn nửa cái sọ dừa trên đầu, chọi con ó cái bốp, con ó đau quá, nhả ra nửa quả cau, còn nửa quả nó vẫn cố gặm bay đi liểng xiểng. Vì nửa quả cau này mà già làng của bản Đạ không biết chấm thế nào, già làng cho rằng nửa quả nên không tính, và xử hoà cho A Chào và K’Tắc. Bản Lạch không chịu, hai bên cãi nhau hết nửa con trăng. Cuối cùng bản Lạch không nhận giải và bỏ về, hai bản Đạ và Lạch thù nhau từ đó.

*********

Hai mươi mùa cây rừng thay lá, mối thù giữa bản Đạ và bản Lạch vẫn như ngày nào, người bản Đạ và người bản Lạch cứ gặp nhau là đánh nhau sứt đầu mẻ trán mới thôi, đánh mệt rồi, hẹn nhau mấy hôm khác lên đỉnh núi đá vôi đánh tiếp, họ đánh đến nỗi núi đá vôi bị mòn, trũng xuống, ngày nay người ta gọi là Thung Lũng Tình Yêu. Thực ra thì nơi đây chưa gọi là Thung Lũng Tình Yêu đâu, số là khi nơi này trở thành Thung Lũng, có hai gia đình hẹn ra đánh nhau, Một bên là Tốc Cai người của bộ lạc Đạ, một bên là P’Chu, người của bộ lạc Lạch. Tốc Cai đi săn trong rừng, bắt gặp một con thỏ, ông giương nỏ lên định bắn thì có con sâu bơ ở đâu rớt trúng mũi, làm ông giật mình, con thỏ nghe tiếng động, chạy mất, Tốc Cai liền rượt theo, con thỏ chạy theo hướng núi đá vôi, nó chạy lên đỉnh núi, khiếp, sao nhỏ mà chạy lẹ thế, Tốc Cai vừa thở hồng hộc vừa rượt theo vừa rủa thầm. Bốp, mặt mũi Tốc Cai tối sầm lại, cái lỗ mũi ăn trầu rồi, máu chảy đỏ lè. Tốc Cai sau khi định thần lại, ngó kỹ, thì ra tên vừa đụng mình là P’Chu, người của bản Lạch. P’Chu chạy lên núi đá vôi cũng vì đi săn, nhưng không phải P’Chu rượt thú mà bị thú rượt do vô tình đạp trúng đuôi con con gấu, quýnh quáng, P’Chu lại chạy lên núi đá vôi, con gấu thấy núi cao quá, nhắm leo không nổi nên quay về lâu rồi, còn P’Chu thì cứ mải chạy miết, và tông thẳng vô Tốc Cai, làm Tốc Cai dập mũi, còn P’Chu thì kiếp này không thể huýt gió được nữa do gãy một cái răng cửa. Cả hai đứng dậy thủ thế chuẩn bị đánh nhau. Nhắm tình hình không ổn, Tốc Cai đề nghị dời lại hôm khác đánh tiếp. P’Chu đồng ý, cả hai hẹn nhau ngày mai, khi ông mặt trời lên đầu ngọn tre, sẽ tới đây quyết đấu. Tối đó, Tốc Cai bị ngứa do sưng mũi, hồi chiều Tốc Cai chỉ nhai một nắm lá rừng rồi nhét vào mũi cầm máu, nhưng không nhớ là lá gì, bây giờ thì ngứa khắp mình mẩy, cứ gãi sồn sột hoài. Tốc Cai than vắn thở dài cả đêm, Thiết Mộc Chân là con trai đầu của Tốc Cai thấy thế, liền đề nghị để mai mình đi thay. Tốc Cai không đồng ý, nhưng tới gần sáng vẫn chưa hết ngứa đành đồng ý cho con mình đi chiến đấu bảo toàn danh dự thay mình. Nói về phần P’Chu, đêm đó P’Chu lên cơn sốt do gãy răng, mê sảng, cả người cứ nóng hâm hấp, miệng nói sảng, lảm nhảm tới sáng. Con gái của P’Chu là Hoa Mộc Lan thương cha, muốn bảo toàn danh dự cho gia đính mình nên đã cải trang thành con trai rồi lên núi đá vôi chiến đấu thay cha.

Ông mặt trời đã đứng đầu ngọn sào, Thiết Mộc Chân và Hoa Mộc Lan đứng gườm gườm thủ thế, cả hai thét to một tiếng rồi nhào vô đánh nhau túi bụi. Thuở nhỏ, Thiết Mộc Chân theo cha đi săn, ông săn được con gì, nhiều hay ít cũng bắt Thiết Mộc Chân khiêng về, có hôm thì con thỏ, có hôm thì con chim se sẻ, có hôm thì con cọp, lần đó Thiết Mộc Chân kéo con cọp về nhà mà bở hơi tai, bỏ ăn hai ngày hai đêm để nghỉ mệt, từ đó Thiết Mộc Chân tập khiêng đá hàng ngày để có một cơ thể khoẻ mạnh, có thể vác con cọp về nhà mà không phải bỏ ăn. Về phần Hoa Mộc Lan, nhà chỉ có P’Chu là đẹp trai nhất nhà, P’Chu lại đi săn hàng ngày, nên mọi việc nặng nhọc trong nhà Hoa Mộc Lan đều làm hết, từ đốn củi, chặt cây, lợp nhà đến trồng sắn, tỉa bắp. Khi rỗi, Hoa Mộc Lan thường vào rừng vật nhau với gấu, với cọp rồi về, P’Chu mà biết chắc ông đã chết giấc tự đời nào. Hôm nay, Thiết Mộc Chân và Hoa Mộc Lan mới có dịp thi thô bản lĩnh tài năng, bụi bay mù mịt, nguyên một vùng bụi đá vôi phủ trắng xoá, làm cả hai bản tưởng là hôm nay có núi lửa hay động đất gì đó. Thiết Mộc Chân giở món sở trường là bưng đá ra, đá dưới chân cứ bị Thiết Mộc Chân bưng lên, rồi nhè Hoa Mộc Lan và chọi, Hoa Mộc Lan đâu có ngán mấy viên đá lẻ tẻ này, nàng thường bị gấu với cọp tát hoài, nên nàng tránh né những tảng đá của Thiết Mộc Chân một cách dễ dàng. Thiết Mộc Chân liên tục bị Hoa Mộc Lan vật uỳnh uỳnh xuống nền đá vôi, cả người ê ẩm, nhức mỏi toàn thân. Thật là một cuộc chiến đấu ngang tài ngang sức của cặp trai tài và gái sắc giả trai. Ông mặt trời đã leo xuống chân ngọn sào, rồi đi ngủ, ông trăng lên, chứng kiến cảnh đánh nhau của hai người, rồi ông trăng mệt, ông trời lại đến phiên gác mà Hoa Mộc Lan và Thiết Mộc Chân vẫn đánh nhau chưa xong. Hỡi ôi, núi đá vôi bây giờ chỉ còn trong lịch sử vì đã bị Thiết Mộc Chân cạy lên làm võ khí đánh Hoa Mộc Lan. Nguyên một vùng núi cao giờ đã bị trũng sâu xuống bằng một cây thông, xế trưa, khi mặt trời gần đứng bóng, trong khi né một tảng đá do Thiết Mộc Chân quăng tới, Hoa Mộc Lan làm đứt mất sợi dây mây buộc tóc, mái tóc dài óng ả gội bằng trái bồ kết nướng với nước suối rừng đã bị tung ra, Thiết Mộc Chân há hốc miệng, đứng sững người, tảng đá đang cầm trên tay rớt xuống cái bịch, trúng chân chàng, chàng chỉ việc la lên mà không cần phải mở miệng, vì miệng đã mở sẵn rồi. Trận đó Thiết Mộc Chân thua, nhưng bù lại, chàng lại hẹn với Hoa Mộc Lan con trăng sau sẽ gặp lại ở đây, vào đêm trăng tròn nhất. Núi đá vôi đã không còn, bây giờ nó đã trở thành thung lũng, và cũng là nơi tình yêu bắt đầu của Thiết Mộc Chân và Hoa Mộc Lan.

**********

Vào một đêm trăng sáng, chỉ có đôi trai gái đang yêu nhau ngồi dưới trăng. Từ ngày đánh nhau với Hoa Mộc Lan, đây là lần đầu tiên Thiết Mộc Chân hẹn gặp với Hoa Mộc Lan. Hôm nay chàng vận cái khố đẹp nhất chỉ dành cho ngày hội, thân hình lực lưỡng của chàng làm cho gió phải phát ghen. Hôm nay Hoa Mộc Lan vận một cái xà-rông mới, suối tóc dài óng ả, tay cầm một cành hoa, vừa đi vừa nhảy chân sáo. Mộc Chân đứng bên Mộc Lan, không biết nói gì, thời gian cứ thế trôi lặng lẽ, đêm đã dần khuya, sương xuống.. Chợt Mộc Chân cất tiếng hát:

Ơi cao nguyên cao nguyên em thương ai thương ai bên núi đang chờ ai.

Cháy lên ơi lửa thiêng, cháy mãi cho bóng em hiện ra.

Giữa ngọn lửa, em trao bầu rượu, em trao lời nói.

Nhớ. . .mãi. . . nhớ. . .

Lời nói, lửa cháy, rượu đắng ngày nào.

Còn đàn chim Chơ rao bay qua bay qua dưới bầu trời.

Còn dòng sông ChưPrông trôi qua trôi qua dưới mặt trời.

Còn thương em anh còn thương em mãi người ơi

Hoa Mộc Lan hát:

Em yêu cao nguyên cao nguyên đầy gió

Quê hương mênh mang điệu sáo buồn thương

Từng đêm nằm mơ thấy bóng anh về

Bâng khuâng trên tay chiếc vòng của em

Em trong tay anh mối tình dịu êm

Bài hát thay lời muốn nói, cứ thế, Mộc Chân và Mộc Lan hát tới sáng, đến khi giọng đã khàn, tiếng đã khan, cái cổ đã rát không còn phát âm được nữa thì hai người mới chịu chia tay, trước khi chia tay, Mộc Chân còn với vát được một câu:

Tái môi mím chặt chắt chiu

Để cho cay đắng buồn hiu xuôi dòng

Câu này có nghĩa là tối mai hẹn nhau ở bên dòng suối, tái môi là tối mai, Mộc Chân muốn hẹn Mộc Lan ra dòng suối hát hò tiếp, nhưng Mộc Lan nghĩ ngày mai có lẽ chưa lành giọng, và bên bờ suối lại có nhiều người qua lại, cho nên đáp:

Tìm Tiên trở lại Thiên Thai,

Rêu xanh đá trắng tơi bời bụi tan

Hang sâu im lặng tiếng đàn

Một vùng hạc nội mây ngàn ngẩn ngợ

Trong câu này có chữ “trắng tơi”, nghĩa là tới trăng, tức là hẹn Mộc Chân con trăng tới sẽ gặp nhau ở trong hang, và đó chính là thác Hang Cọp. Nghe nhắc tới cọp, Mộc Chân bị ấn tượng bởi mấy lần vác xác cọp về nhà, bây giờ lại hẹn hò ở hang cọp, Mộc Chân rùng mình đứng ngẩn ngơ, nhưng không lẽ con trai bản Đạ lại nhát hơn con gái bản Lạch, để người khác mà biết được chuyện này chắc cả bản cười cả mấy con trăng chưa hết. Chàng gật đầu đồng ý.

Kể từ khi gặp Mộc Chân, Mộc Lan vui lắm, nàng làm gì cũng hăng say, cái cột nhà sàn bị mối mọt ăn mục, nàng vác rựa vào rừng đẵn một khúc cây to vác về thay cho cái cột cũ, vừa làm nàng vừa hát, thỉnh thoảng lại huýt sáo vang nhà, P’Chu tức lắm, vì ông không thể huýt sáo được nữa, nhưng không lẽ lại cấm con gái huýt sáo, ông hậm hực bỏ ra bờ suối, ôm theo cây đàn đá ra ngồi thở than tâm sự cho cái răng gãy của mình. Và ông cũng để ý tới sự thay đổi của con gái.

Về phần Mộc Chân, từ khi gặp Mộc Lan, chàng làm việc gì cũng chẳng để tâm, kêu chàng đốn cây về đẽo cái bậc thang thì chàng lại để nguyên cái cây thông như vậy mà đẽo, đẽo nguyên cây xong rồi mới đẵn một khúc về làm cái thang, báo hại chàng bị Tốc Cai mắng cho một trận vì làm chuyện phong lông. Rồi chẳng hạn như Tốc Cai bảo Mộc Chân lấy nước tưới cho nương ngô, chàng cứ thế mà múc nước đổ vào nương ngô cho tới khi con suối cạn nước, con cá thoi thóp thở, còn nương ngô thì thành ruộng lúa nước ở dưới xuôi. Tốc Cai để ý thấy Mộc Chân hơi khác lạ, ông nhớ hình như ông thấy hình ảnh này ở đâu rồi, nhưng không nhớ là ở đâu. Tốc Cai ra bờ suối ngồi suy nghĩ, chợt nghe tiếng đàn đá xa xa vọng tới, tiếng đàn chất chứa đầy nỗi niềm, than thở, u sầu, bi ai, ai oán. Chợt Tốc Cai vỗ đùi cái đét, nhớ rồi, hình ảnh của Mộc Chân hiện giờ chính là hình ảnh của ông cách đây mấy mươi mùa cây rừng thay lá. Hồi đó khi lần đầu gặp mẹ của Mộc Chân, Tốc Cai cũng lâm vô trạng thái mất hồn như vậy, vậy là Mộc Chân sắp lấy vợ rồi, ông khấp khởi mừng thầm.

Mộc Lan và Mộc Chân lén lút hẹn hò với nhau như vậy đã nửa mùa cây rừng rụng lá, Tốc Cai theo dõi và biết được con mình hẹn hò với con của kẻ thù, liền ngăn cấm, nhưng Mộc Chân vẫn lén lút gặp Mộc Lan. Còn Mộc Lan cũng bị cha nàng cấm đoán khi biết nàng yêu với Mộc Chân, cha nàng không cho nàng đi gặp Mộc Chân nữa, bắt suốt ngày đêm chỉ quanh quẩn ờ nhà. Mộc Lan buồn lắm, người heo hắt gầy mòn dần dần, nàng thường ra bờ hồ hát lên những bài ca buồn bã, để than thở cho số kiếp hẩm hiu, con chim trên rừng nghe tiếng nàng hót, ganh tỵ quá bay tới gần nàng để nghe, và lăn ra xỉu vì tiếng hát của nàng, con cá dưới hồ ngày nào cũng phải nghe nàng hát, nên nó càng lặn xuống sâu hơn, cả làng liên tục phải ăn chay, vì chim không bẫy được, không bắn được, cá không câu được, nàng đã làm cho chim sa cá lặn và cả làng lâm vào tình trạng đói. Ngày ngày, nàng vẫn đều đặn ra hồ ngồi than thở, cho đến một hôm, sức cùng lực kiệt, nàng chết bên bờ hồ, dân bản Lạch đem xác nàng chôn trên đồi thông, nơi đó có thông reo rì rào suốt ngày, nơi đó có cái nắng, có cái gió, có cái đó…

Về phần Mộc Chân, không được gặp người yêu, ngày nào Mộc Chân cũng ra ngoài khiêng đá và ném. Nghe tin Mộc Lan chết, chàng lại bưng đá ném, càng ném càng hăng, đống đá chàng ném càng ngày càng cao, và đống đá đó đã cao hơn bất cứ núi nào của vùng cao nguyên, cuối cùng, chàng kiệt sức mà chết dưới chân núi. Dân bản Đạ thương tiếc cho chàng và mối tình của chàng với Mộc Lan, đã đem chàng chôn gần bên mộ Mộc Lan, và đồi thông đó ngày nay gọi là đồi thông hai mộ. Còn núi đá Mộc Chân để lại chính là núi Langbiang, nơi năm nào Thiết Mộc Chân tưởng nhớ người yêu mà ném đá. Già Làng bản Đạ và già làng Bản Lạch xoá mối thù xưa, chung tay xây dựng một dân tộc trên cao nguyên này, gọi là Đạ Lạch. Câu cau là nguyên nhân gây ra hiềm khích giữa hai bản đã bị đốt trụi, rừng trầu nơi bà tám đi lạc cũng bị đốt trụi để khỏi có ai bị đi lạc và trở nên già như bà tám, lửa của cây cau và rừng trầu cháy rất lớn, làm cho dân các nước Miến Điện, Thái, Lào, Cam …tưởng là có núi lửa, suốt ngày cứ cúng Giàng cầu khẩn thần linh phù hộ. Ngày nay, di tích của cây cau và rừng trầu không còn nữa, nhưng nhắc tới Đà Lạt thì ai cũng biết !

http://traolonghaiyih.com/